Quy định về xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản chung của người phải thi hành án như sau:
1. Trường hợp tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung, được xử lý như sau:
+ Đối với tài sản chung có thể chia được thì chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án. Thực tiễn cho thấy, việc xác định phần sở hữu của các chủ sở hữu chung hầu hết chỉ được xác định dựa trên tỷ lệ giá trị tài sản mỗi người được sở hữu, mà rất khó để xác định trên thực tế. Ví dụ: A và B cùng mua chung một thửa đất 200m2, số tiền mà A và B bỏ ra là bằng nhau. Trong đó, A là người phải thi hành án. Như vậy, ta dễ dàng xác định được phần sở hữu chung của A là 1/2 giá trị thửa đất. Tuy nhiên, để kê biên 1/2 thửa đất trên là tương đối khó khăn đối với chấp hành viên kể cả trường hợp phân chia không làm giảm giá trị của thửa đất. Vì để kê biên phần đất của A thì chấp hành viên phải xác định được phần đất của A ở chỗ nào, tứ cận ra sao. Mặc dù khi chia thì A và B mỗi người được 100m2, nhưng rõ ràng trên thực tế, vị trí hai thửa đất sẽ có giá trị khác nhau. Do vậy, việc khiếu nại của A hoặc B trong trường hợp này là không thể tránh khỏi, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Chính vì vậy, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án thường chỉ được chấp hành viên áp dụng khi tài sản rõ ràng, dễ phân chia, đã được phân chia theo bản án, quyết định hoặc do các đương sự thỏa thuận.
+ Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ[4]. Đây là giải pháp được nhiều chấp hành viên áp dụng nhất khi kê biên, xử lý tài sản chung của người phải thi hành án với người khác. Vì rất khó có thể khẳng định một tài sản khi phân chia mà không làm giảm giá trị của tài sản.
2. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung, theo khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, việc phân chia được tiến hành như sau:
+ Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng chung của vợ chồng thì chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Thông thường, khi xác định phần sở hữu của vợ, chồng, chấp hành viên sẽ theo nguyên tắc chia đôi giá trị tài sản và sau đó thông báo cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án biết.
+ Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử dụng theo số lượng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản, thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất. Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng cho các thành viên trong hộ gia đình biết. Trường hợp vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác định của chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ. Hết thời hạn này mà không có người khởi kiện thì chấp hành viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của họ.
+ Đối với tài sản chung khác: Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 Luật Thi hành án dân sự hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án (khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự).
Như vậy, theo quy định hiện nay thì đối với tài sản chung chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản mà không phải là tài sản của vợ chồng, hộ gia đình, trong trường hợp đương sự, người có quyền sở hữu, sử dụng chung không thỏa thuận được việc phân chia tài sản, thì chấp hành viên chỉ kê biên, xử lý tài sản sau khi đã có bản án của Tòa án về việc xác định tài sản chung.
Xem thêm: mẫu hợp đồng thế chấp tài sản