Thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo Bộ luật tố tụng dân sự và Luật trọng tài thương mại thì.
- Trọng tài có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của người khởi kiện trong vụ án mà mình giải quyết.
- Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo yêu cầu của người khởi kiện trong vụ án mà mình giải quyết hoặc các vụ án do trung tâm trọng tài giải quyết.
Các Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là những biện pháp mang tính tạm thời được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.
Căn cứ vào quy định cụ thể của từng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật tố tụng hành chính năm 2015, các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được chia làm 2 loại:
Các Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng kể cả trường hợp Tòa án chưa thụ lý vụ án và các Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án (Bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án).
1. Một là biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (Điều 115 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
2. Hai là biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng(Điều 116 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
3. Ba là biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm (Điều 117 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
4. Bốn là biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động (Điều 118 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
5. Năm là biện pháp tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động (Điều 119 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
6. Sáu là biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ (Điều 128 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
7. Bảy là biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình(Điều 129 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
8.Tám là biện pháp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án (Điều 131 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
9. Chín là biện pháp tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính (Điều 70 Luật tố tụng hành chính 2015)
Các Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án
1. Một là biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp (Điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
2. Hai là biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp(Điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
3. Ba là biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp (Điều 122 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
4. Bốn là biện pháp cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác (Điều 123 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
5. Năm là biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước (Điều 124 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
6. Sáu là biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ (Điều 125 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
7. Bảy là biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ (Điều 126 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
8. Tám là biện pháp cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định (Điều 127 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
9. Chín là biện pháp tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu (Điều 130 Bộ luật tố tụng dân sự 2015)
10. Mười là biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh (Điều 69 Luật tố tụng hành chính 2015);
Các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có quyền áp dụng trong giai đoạn tiếp nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án
Có quan điểm cho rằng do Khoản 2 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 66 Luật TTHC 2015 có quy địnhtrong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 68 của Luật TTHC 2015 đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó nên trong giai đoạn tiếp nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án thì Tòa án có quyền áp dụng tất cả các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Điều 68 của Luật TTHC 2015.
Tuy nhiên theo quan điểm của người viết thì Khoản 2 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Khoản 2 Điều 66 Luật TTHC 2015 là các điều khoản quy định về quyền yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời của người khởi kiện nhưng khi quyết định áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải căn cứ vào quy định cụ thể về từng Biện pháp khẩn cấp tạm thời để xem xét và quyết định. Do Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Luật TTHC có quy định các Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng và các Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án.
Do đó, khi giải quyết yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện của đương sự thì Tòa án chỉ có quyền áp dụng các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thể áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng. Riêng các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tại các điều luật quy định cụ thể về từng BPKC pháp luật có quy định Tòa án được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án thì Tòa án chỉ được áp dụng sau khi đã thụ lý vụ án.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người khởi kiện được quyền yêu cầu cùng với việc nộp đơn khởi kiện là để bảo vệ chứng cứ và ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy nhưng nhìn lại quy định về các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có quyền áp dụng trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện thì chỉ là các Biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy, thiếu các Biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ. Quy định về các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án chỉ được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Luật TTHC 2015 đã bộ lộ sự không đồng bộ giữa quyền yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời của đương sự với quyền áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Mặt khác, trong một số trường hợp việc áp dụng các Biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý sẽ có nhiều ý nghĩa trong việc giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án.
Do đó, cần thiết phải được sửa đổi lại các quy định cụ thể về một số biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các thủ tục tố tụng dân sự và tố tụng hành chính để Tòa án có quyền áp dụng tất cả các Biện pháp khẩn cấp tạm thời mà pháp luật đã quy định khi nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án.
Ví dụ : Với quy định về Biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 116 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 “Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp dưỡng” thì Tòa án có quyền áp dụng biện pháp này trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nhưng với quy định về Biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Khoản 1 Điều 120 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.” thì Tòa án chỉ được áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời này trong quá trình giải quyết vụ án.
Để biện pháp này có thể áp dụng được trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì chỉ cần điều chỉnh lại như sau: “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.”
Tham khảo thêm bài viết: Thủ tục thay đổi ngành nghề kinh doanh